Bài 1. ĐO TẦM VẬN ĐỘNG KHỚP
1. ĐẠI CƯƠNG
Đo khớp (joint measurement) là một tiến trình lượng giá chủ yếu trong những trường hợp rối loạn chức năng thể chất mà hậu quả của nó là làm giới hạn tẩm vận động khớp, ví dụ như trong những trường hợp viêm khớp, gây xương, bỏng, và tổn thương bàn tay. Tấm vận động khớp (ROM Range of Motion) là cung của một cửđộng qua đó một khớp phải hoàn thành. ROM thụ động là cung cử động của khớp mà sự di dộng của nó là do một ngoại lực. ROM chủ động là cung cử động của khớp mà sự di động của nó là do sự co cơ tác động lên khớp đó. Thông thường, ROM thụ động là hơi lớn hơn ROM chủ động. Dụng cụ để đo ROM là khớp kế (goniometer).
Mục đích của đo ROM là để:
(1) Xác định những hạn chế mà nó ảnh hưởng đến hoạt động, hay có thể tạo ra sự biến dạng.
(2) Xác định tẩm độ cần thêm vào để làm gia tăng khả năng hoạt động chức năng, hay làm giảm sự biến dạng
(3) Lưu trữ như là một số liệu để xác định sự tiến triển hay thoái triển.
(4) Đo lường sự tiến bộ một cách khách quan.
(5) Xác định những mục tiêu điều trị thích hợp.
(6) Chọn lựa những biện pháp điều trị thích hợp, những kỹ thuật đật tư thế, và những chiến lược khác để làm giảm đi những sự hạn chế.
(7) Xác định nhu cầu về sử dụng nẹp và những dụng cụ hỗ trợ.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA ĐO KHỚP
Người khám nên biết về số đo ROM trung bình, khớp hoạt động như thẻ nào, cách đặt tư thế người bệnh và vị thế của khớp cắn đo. Trước khi đo, người khám nên yêu cầu người bệnh di động phân đoạn khớp cần do thực hiện cử động trong ROM có thể có – nếu như sức mạnh cơ từ bậc Khả (bậc 3) trở lên và quan sát cử động xảy ra. Người khám cũng nên di động thụ động phân đoạn khớp cần đo để thấy và cảm nhận khớp di động như thế nào, và ước lượng ROM của nó.
Trị số bình thường của ROM thay đổi từ người này sang người khác. Do vậy, nên so sánh với trị số tấm hoạt động của khớp đối bên. Nếu điều này không thể thực hiện được, ví dụ như trong trường hợp đoạn chi, thì nên so sánh với trị số trung bình tẩm hoạt động của khớp đó. Người khảm cũng nên xem xét bệnh ăn và hỏi bệnh nhân về sự hạn chế hiện tại và những hạn chế khác gây nên bởi những tổn thương cũ. Các khớp không được cưỡng bức khi sự kháng cản xuất hiện ở ROM thụ động. Đau có thể làm hạn chế ROM và tiếng lục cục có thể nghe thấy khi cử động khớp trong một số trường hợp.
III. PHƯƠNG PHÁP ĐO KHỚP
Có nhiều hệ thống để ghi nhận số đo khi tiến hành đo tẩm hoạt động khớp. Trong cuốn sách này, chúng tôi chỉ khảo sát duy nhất một hệ thống. Hệ thống này được gọi là “hệ thống zero trung tính”. Với hệ thống này, tư thế giải phẫu để khởi đầu đo là zero độ trung tính, không kể thước đo ghi nhận bao nhiêu độ. Với hệ thống này, tư thế khởi đầu để đo cử động của khuỷu tay là 0º chứ không phải là 180° như thước do ghi nhận, tư thế của cổ chân là 0º chứ không phải là 90°. Số cung độ mà phân đoạn khớp di động được sẽ được cộng thêm vào từ 0
IV. KHỚP KẾ
Thước đo khớp hay khớp kế (goniometer) được dùng để do tẩm vận động khớp. Thước được làm bằng kim loại hay plastic và có nhiều cô. Từ goniometer xuất phát từ tiếng Hy Lạp, gonio có nghĩa là góc và metron có nghĩa là đo lường. Do vậy, theo nghĩa den thì goniometer có nghĩa là đo góc.
Khớp kế gồm có một thanh cố định (nhánh gần) và một thanh di động (nhảnh xa). Thanh cố định có gắn một thước đo góc nhỏ hình bán nguyệt hay hình tròn có khắc cung độ, từ 0º cho đến 180° cho thước hình bán nguyệt hay từ 0º cho đến 360° cho thước hình tròn. Thanh di động được gân vào tâm hay trục của thước đo và hoạt động giống như kim đồng hồ. Khi thanh di động quay quanh thước đo, đính của thanh sẽ chỉ vào số độ trên thước đo.