CHƯƠNG 1. SỬ DỤNG TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.1. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ CÁC VẤN ĐỂ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN NƯỚC
Nước là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển môi trường sống. Nước là một loại tài nguyên thiên nhiên quý giá và có hạn, là động lực chủ yếu cho mọi hoạt động dân sinh kinh tế của con người. Nước được sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp, thủy điện, giao thông vận tải, chăn nuôi, thủy sản v.v… Bởi vậy, tài nguyên nước có giá trị kinh tế và được coi là một loại hàng hoá.
Nước là loại tài nguyên có thể tái tạo được và cần phải sử dụng một cách hợp lý để duy trì khả năng tái tạo của nó.
Trên hành tỉnh chúng ta nước tồn tại dưới những dạng khác nhau: Nước trên trái đất, ngoài đại dương, ở các sông suối, hồ ao, các hồ chứa nhân tạo, nước ngầm, trong không khí, băng tuyết và các dạng liên kết khác. Theo V.I. Veronatske, khối lượng nước trên trái đất vào khoảng 1,46 tỷ km², trong đó nước trong đại dương chiếm khoảng 1,37 tỷ km².
Sự phân bố nước trên hành tỉnh chúng ta theo số liệu ước tính của UNESCO năm 1978 như sau (xem bảng 1.1): Tổng lượng nước trên trái đất vào khoảng 1.385.984.610 km trong đó nước trong đại dương vào khoảng 1.338.000.000 km² chiếm khoảng 96,5%. Nước ngọt trên trái đất chiếm tỷ lệ rất nhỏ chỉ vào khoảng 2,5%. Nước ngọt phân bố ở nước ngầm, nước mặt, dạng băng tuyết và các dạng khác, trong đó lượng nước ở dạng băng tuyết chiếm tỷ lệ cao nhất (xấp xỉ 70%), nước ngọt ở các tầng ngầm dưới đất chiếm tỷ lệ vào khoảng 30,1%, trong khi đó nước trong hệ thống sông suối chỉ chiếm khoảng 0,006% tổng lượng nước ngọt trên trái đất, một tỷ lệ rất nhỏ.
Nguồn nước trên thế giới là rất lớn, nhưng nước ngọt mới là yêu cầu cơ bản cho hoạt động dân sinh kinh tế của con người. Nước ngọt trên thế giới ở dạng khai thác được có trữ lượng không lớn, chiếm khoảng trên dưới 1% tổng lượng nước có trên trái đất. Khi sự phát triển dân sinh kinh tế còn ở mức thấp, nước chỉ mới được coi là môi trường cần thiết cho sự sống của con người.