Chương một
THƠ CA
A. KHÁI QUÁT
– Theo số liệu thống kê bước đầu, trong kho tàng di sản văn học thành văn (được ghi lại bằng chữ Hán, chữ Nôm) của dân tộc, các văn bản thơ ca chiếm tới trên 60%. Về mặt chất lượng, đây cũng là bộ phận văn bản có giá trị rất cao về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
– Trước khi chữ viết ra đời, kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh, tâm tư, tình cảm, những sự việc quan trọng trong truyền thống lịch sử cộng đồng…. nói chung đều chỉ được lưu kí bằng trí nhớ và phổ biến bằng phương thức truyền miệng. Vẫn điệu được phát hiện một cách ngẫu nhiên và tiệm tiến ở thời buổi sơ khai đã tăng cường thêm hiệu quả cho các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ văn hoá này. Một quá trình lựa chọn, sàng lọc, sắp xếp những điều cần thông báo, tu chỉnh, gọt giũa ngôn từ, ghép vẫn hoà điệu đã diễn ra liên tục, với sự góp sức của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. nhằm hỗ trợ cho trí nhớ, tăng thêm sức hấp dẫn, thuyết phục cho những điều cần phổ biến, lưu truyền trong cuộc sống văn hoá của cộng đồng. Có thể coi đây là những bước mở đầu có tính chất xây đắp nền móng cho nghệ thuật ngôn từ – một trong những ngành nghệ thuật phát sinh và phát triển sớm nhất trong lòng cuộc sống lao động của xã hội loài người. Tục ngữ, ca dao, hò, vè, lối nói có vần điệu. những lời thơ chân chất mộc mạc, những bản trường ca – sử thi sống động, tươi đẹp, hào hùng phản ánh tâm tư, tình cảm, trí tuệ sinh hoạt vật chất và tinh thần của đất nước ta trong quá khứ lịch sử đã nảy sinh và định hình trong những điều kiện đó.