Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam Lưu

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam

Danh mục: , Người đăng: Ly Võ Thị Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 24 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

Phần 1. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN

1.1. KHÁI NIỆM “VĂN HỌC DÂN GIAN”

1.1.1. Các quan niệm về tên gọi văn học dân gian

Văn học dân gian Việt Nam hình thành, phát triển theo tiên trình hình thành, phát triển của dân tộc từ khi xã hội chưa có chữ viết cho đến ngày nay và mãi về sau. Nhân dân gọi những sáng tác dân gian bằng những tên nôm na chuyện đời xưa, câu hát, câu hỏ như hát phường vải, hát giặm, hát quan họ, hó khoan, hát ru, hát ghẹo, vè, câu đó… Nhưng tên chung để gọi nó thì chưa có. Các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học ở nước ta đã tìm cách định danh cho nó bằng những tên gọi khác nhau: văn học (hay văn chương) truyền miệng (truyền khẩu) để phân biệt với văn học viết trên phương diện sáng tác và lưu truyền; văn chương bình dân (hay văn học đại chúng) để phân biệt với văn chương bác học trên phương diện chủ thể sáng tạo. Thực ra, gọi Văn học dân gian (VHGD) là văn học bình dân và văn học viết là văn học bác học cũng chưa thật thoả đáng. Những người tham gia sáng tác những tác phẩm dân gian không chỉ là những người bình dân mà còn có các nhà nho. Về chất lượng tác phẩm thì có nhiều sáng tác dân gian là mẫu mực cho sáng tác của văn học viết noi theo. Khái niệm “dân gian” được hiểu là không gian nhân dân, nghĩa là VHDG là văn học ra đời và lưu truyền trong không gian, môi trường nhân dân. Vì thế, có thể gọi VHDG là Văn học cộng đồng.

Thuật ngữ VHDG được các nhà nghiên cứu văn học sử dụng từ đâu những năm 50 của thế kỷ XX. Vũ Ngọc Phan còn gọi là dân gian văn học. Các thuật ngữ trên vẫn chưa khái quát đầy đủ bản chất của sáng tác dân gian. Các nhà nghiên cứu văn học trên thế giới có xu hướng dùng thuật ngữ folklore. (Tiếng Anh: folk: nhân dân, lore: tri khôn, trí tuệ). Thuật ngữ folklore được hiểu theo 3 cách:

– Folklore là toàn bộ những sáng tác có tính chất nghệ thuật của nhân dân trong mọi thời đại tương đương với thuật ngữ văn nghệ dân gian hoặc nghệ thuật dân gian. Quan niệm này thịnh hành ở các nước xã hội chủ nghĩa. Theo GS. Trần Quốc Vượng: “Nói folklore Việt Nam là nói tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu văn hoá của dân gian ở mọi nơi, mọi thời, của mọi thành phần dân tộc… Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống, từ đời sống làm ăn thường ngày (ân, mặc, ở, đi lại) đến đời sống ăn chơi buông xả (thể thao dân gian) hát hò… đến đời sống tâm linh…”. Folk literature and art.

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam

.pdf
16.00 MB

Có thể bạn quan tâm