1. GIỚI THIỆU CHƯƠNG TRÌNH VÀ TRỌNG ĐIỂM
Chương trình
Trung Quốc là một trong những cái nôi của loài người. Đất nước rộng lớn này có lịch sử 5.000 năm, tỉnh từ khi nhà Tần (thế kỉ III TCN, năm 221) thống nhất toàn bộ lãnh thổ, lập nên phong kiến tập quyền, thì cũng đã hơn 2.000 năm. Lịch sử Trung Quốc lâu đời và chưa hề dứt đoạn, tạo nên một nền văn hóa đồ sộ và bền vững. Nền văn hóa ấy rất phong phú và đa dạng. Về triết học có chư từ bách gia, trong đó đáng chú ý nhất là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. Về nghệ thuật có thư pháp (nghệ thuật viết chữ Hán), hội họa, kiến trúc, điêu khắc… Về văn học có thơ, từ, tiểu thuyết, hỉ khúc… Có thể thấy triết học cổ đại Trung Quốc là thành tựu tiêu biểu của văn hóa Trung Quốc, nhưng văn học lại là biểu hiện rực rỡ nhất, mang tính dân tộc độc đáo của văn hóa Trung Quốc.
Văn học Trung Quốc có thể chia làm 5 giai đoạn. Tuy thời gian phát triển dài ngân khác nhau, nhưng mỗi giai đoạn có chung một thi pháp mang đặc điểm khác giai đoạn trước và sau nó.
1. Văn học cổ đại
Đó là văn học giai đoạn tạm xác định là từ thời Hán trở về trước. Văn học phần lớn gần folklor (gần với môi trường giảng xưởng, khuyết danh…). Thể loại: thần thoại, truyền thuyết, ca dao, dân ca. Thi pháp gần gũi với thi pháp văn học dân gian. Các tác phẩm chọn giàng là Kinh thi, Sở tử, Sử ki. Sử kí ra đời vào thời Tây Hán (206 TCN – 9 SCN), có người ghép nó vào văn học giai đoạn phong kiến, theo quan điểm chế độ phong kiến Trung Quốc được xác lập từ thời Chiến quốc (403 TCN – 201 TCN).
2. Văn học trung đại
Đây là giai đoạn dài nhất (20 thế kỉ) nằm gọn trong lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc (Hán, Đường, Tổng, Nguyễn, Minh, Thanh…), là giai đoạn trường thành và hoàn thiện của thi pháp văn học cổ điển Trung Quốc (bao gồm thi pháp các loại hình thơ ca, tiểu thuyết, hí khúc…), là giai đoạn cuối cùng của nền văn học truyền thống trước khi nó giao lưu và tiếp biển với thì pháp các loại hình văn học phương Tây. Mặc dù có sự giao thoa giữa tam giáo, nhưng chung quy Nho giáo và Đạo gia (Lão Trang) là tư tưởng chủ đạo chi phối văn hóa và văn học. Nho giáo bồi dưỡng cảm hứng trách nhiệm của con người, Đạo gia hướng con người về với cuộc sống tự do tự tại, chan hòa với thiên nhiên. Phật giáo răn con người diệt tục thanh tâm, tu thân để đổi kiếp, khi vào Trung quốc gặp gỡ và được tiếp biến theo khuynh hưởng Nho, Đạo nói trên. Thi pháp văn học cổ điển Trung Quốc, mà có học giả đã khái quát thành bốn phạm trù Thần, Phong, Khi Cốt, bắt nguồn chủ yếu từ tâm thức Nho và Đạo, trong đó Nho nghiêng về khuynh hướng tư tưởng, Đạo nghiêng về phong cách nghệ thuật. Các tác phẩm chọn giảng giai đoạn này là thơ Đường và tiểu thuyết cổ điển. Cần đọc thêm Đào Tiềm như là “ông tổ của trường phái ẩn dật” (Lỗ Tấn) và Tây sương kì như là thành tựu tiêu biểu của thể loại hí khúc (kịch nghệ).
3. Văn học cận đại
Đây là giai đoạn ngắn nhất (1840-1919) nhưng là bản lề của sự chuyển tiếp từ cổ điển sang hiện đại. Có người gọi tư tưởng chính trị chủ đạo của giai đoạn này là “chủ nghĩa dân chủ cũ”, nghĩa là chủ trương giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ cách mạng tư sản (tức cách mạng của Tôn Trung Sơn) để phân biệt với “chủ nghĩa dân chủ mới” – giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ cách mạng vô sản từ sau phong trào Ngũ tử (1919). Gọi giai đoạn này là “bản lề” bởi vì nó đặt cơ sở ban đầu cho cuộc cách mạng văn học Ngũ tứ về tư tưởng thẩm mĩ, về phương thức và phương tiện văn học. Nói cách khác, văn học cận đại có thì pháp riêng, bắc cầu giữa văn học cổ điển và vân học hiện đại.